Việc phát hiện hóa thạch của chim sấm Genyornis newtoni (G. newtoni) không chỉ làm sáng tỏ về chính nó mà còn về toàn bộ nhóm Dromornithidae, một nhánh các loài chim Úc lớn hiện đã tuyệt chủng.
Suốt hơn một thế kỷ, các nhà khoa học đã săn lùng hóa thạch hộp sọ của loài chim sấm G. newtoni, còn được gọi là mihirung, nhưng không thành công. Khoảng 50.000 năm trước, những loài chim người khổng lồ này đã đi bộ qua các khu rừng và đồng cỏ ở Úc trên đôi chân cơ bắp. Chúng cao hơn con người và nặng hàng trăm kg.
Loài mihirung cuối cùng đã tuyệt chủng khoảng 45.000 năm trước. Hộp sọ đầu tiên được tìm thấy vào năm 1913, không hoàn thiện và bị hư hỏng nặng, đặt ra câu hỏi về khuôn mặt, thói quen và tổ tiên của loài chim khổng lồ này.
Ngày 3/6, trên tạp chí Historical Biology, các nhà khoa học cho biết việc phát hiện ra hộp sọ G. newtoni hoàn chỉnh đã giải quyết được bí ẩn lâu đời này, mang lại cái nhìn trực tiếp đầu tiên với loài mihirung khổng lồ.
Việc phát hiện ra hộp sọ hoàn chỉnh không chỉ làm sáng tỏ về G. newtoni mà còn về toàn bộ nhóm Dromornithidae, từ đó kết nối với các loài chim nước hiện đại như vịt, thiên nga và ngỗng.
Giáo sư giải phẫu và cổ sinh vật học Larry Witmer tại Đại học Ohio cho biết mặc dù các nhà khoa học đã biết về G. newtoni trong hơn một thế kỷ, nhưng những hóa thạch mới và công trình tái tạo hộp sọ cung cấp những chi tiết quan trọng mà trước đây chưa từng biết đến.
G. newtoni cao khoảng 2 mét và nặng tới 240kg. Nó thuộc họ Dromornithidae, một nhóm chim không biết bay được biết đến từ các hóa thạch được tìm thấy ở Úc.
“Hộp sọ là nơi đặt não và các cơ quan cảm giác, là nơi đặt bộ máy kiếm ăn và thường là nơi đặt các cơ quan trưng bày (sừng, mào…). Thêm vào đó, các hộp sọ có xu hướng chứa đựng các đặc điểm cấu trúc giúp chúng ta có manh mối về phả hệ của chúng”, ông Witmer nói.
Trong nghiên cứu mới, “các tác giả đã khai thác những hóa thạch mới này bằng tất cả những gì họ có”, Witmer cho biết. Các nhà nghiên cứu không chỉ mô hình hóa xương trong hộp sọ; họ cũng phân tích vị trí của cơ hàm, dây chằng và các mô mềm khác gợi ý về đặc điểm sinh học của loài chim.
Nhà cổ sinh vật học có xương sống Phoebe McInerney tại Đại học Flinders, tác giả chính của nghiên cứu, mô tả G. newtoni có một cái mỏ rất khác thường, có hình dạng rất giống ngỗng. So với hộp sọ của hầu hết các loài chim khác, hộp sọ của nó khá ngắn, nhưng hàm rất đồ sộ, được hỗ trợ bởi cơ bắp khỏe mạnh.
Hộp sọ cho thấy chế độ ăn của G. newtoni. Vùng kẹp phẳng ở mỏ thích hợp để xé những quả mềm, chồi và lá mềm, đồng thời vòm miệng dẹt ở mặt dưới của mỏ trên có thể được sử dụng để nghiền trái cây mềm.
“Hộp sọ cũng là bằng chứng cho thấy sự thích nghi với việc kiếm ăn trong nước, có thể là trên cây nước ngọt”, McInerney nói. Trong khi đó, Witmer cho biết giả định kiếm ăn dưới nước của loài chim thật bất ngờ vì kích thước khổng lồ của nó.
Các tác giả nghiên cứu đặt chúng vào bộ chim nước Anseriformes. Dựa trên cấu trúc xương và các cơ liên quan, Dromornithidae có thể là họ hàng gần với tổ tiên của loài chim hét Nam Mỹ hiện đại, loài chim giống vịt sống ở vùng đất ngập nước ở miền nam Nam Mỹ.
Mặc dù cái nhìn mới về G. newtoni là chính xác nhất cho đến nay, nhưng nếu phát hiện thêm các hóa thạch bổ sung, bức chân dung của loài ngỗng khổng lồ khác thường sẽ được khắc họa rõ nét hơn, cũng như môi trường sống đã biến mất của nó, theo đồng tác giả nghiên cứu và nhà cổ sinh vật học gia cầm Jacob Blokland cho biết.
Ông nói: “Một loài chim khổng lồ và độc đáo như vậy chắc chắn đã ảnh hưởng đến môi trường và các động vật khác mà nó tương tác, dù lớn hay nhỏ. Chỉ thông qua nghiên cứu, chúng ta mới có thể xây dựng được một bức tranh lớn hơn và khám phá những gì chúng ta đang thiếu”.